Tộc trưởng Đào Trường Diệu mang theo mười mấy thôn dân khiêng cây thang xuống núi.
Muốn đi qua bẫy rập dưới chân núi thì cần tới thang này.
Lúc tới nơi ông chỉ thấy đám trai tráng đang hưng phấn vung vũ khí vây quanh mấy tên phỉ tặc còn sống sót.
Đào Trường Diệu dẫn mọi người tới, thế là không biết ai hô lên mà mọi người đều tản ra nhường đường cho ông đi qua. Tên cầm đầu tuy đã bị trói lại như bánh chưng nhưng vẫn kiêu ngạo dữ tợn cười mắng: “Đám chân đất các ngươi còn không nhanh thả ta ra, nếu không chờ viện binh tới sẽ giết sạch các ngươi, cướp lương thực và đốt hết! Ha ha! Sợ rồi sao?! Sợ thì mau thả ta ra, tới khi ấy ta sẽ cho các ngươi được toàn thây!” Đào Trường Diệu là anh nông dân thành thật, chỉ biết trồng trọt, quản lý thôn dân, bảo vệ Đào gia thôn.
Hiện giờ có một đám sài lang tới đây, không chỉ muốn cướp lương thực còn muốn giết người trong tộc thì dù là người thành thật cũng không nhịn được.
Ông cười lạnh nói: “Viện binh thì sao? Đám phỉ tặc các ngươi giết nhiều người ở Thục Châu như thế, một thôn già trẻ chúng ta dù chết cũng phải liều mạng một phen, giết một kẻ là đòi vốn, giết hai kẻ coi như lãi! Ngươi đừng chờ viện binh gì nữa, vì hiện tại chúng ta sẽ tiễn các ngươi đi gặp Diêm Vương!” Những kẻ khác thấy đám nông dân này bị chọc giận thì nhanh chóng xin tha: “Các vị hảo hán xin tha mạng! Căn bản không có viện binh đâu, đừng nghe hắn nói bậy.
Đại quân lớn đã bị quan binh của tân triều diệt rồi!” Ân Tu Trúc lạnh lùng liếc những tên phỉ tặc này và nói: “Kẻ nào khai thật thì ta sẽ tha mạng, còn kẻ nào nói láo thì nhìn kết cục đây!” Nói xong hắn nâng tay lên chém xuống cắt tai trái của tên cầm đầu khiến máu phun ra còn tên kia thì đau đớn lăn lộn. Ân Tu Trúc tiếc nuối nói: “Vốn ta định chém đầu hắn nhưng lại trượt, lần sau ắt ta sẽ chém trúng đầu!” Đám giặc cướp thấy thế thì rùng mình, trong khi ấy Ân Tu Trúc lại nói tiếp: “Tiếp theo đây ta hỏi, các ngươi phải cố gắng mà trả lời, ai biết hơn có thể bổ sung.
Có thể giữ mạng hay không phụ thuộc vào biểu hiện của các ngươi.
Câu hỏi đầu tiên: Sao các ngươi lại xuất hiện ở chỗ này?” “Ta nói, ta nói!” Mấy tên giặc cướp đồng loạt tranh trả lời.
Ân Tu Trúc tùy tiện chỉ vào một kẻ, tên kia kích động nói: “Thật không dám giấu giếm, chúng ta cũng là nông dân, trong nhà nghèo quá không sống nổi nữa mới ra ngoài theo Viên tướng quân tạo phản.
Sau đó chúng ta lại đi theo một tướng lãnh dưới trướng Viên tướng quân là Trương Hiến Trung vào Thục Châu.
Kẻ này tự xưng là Bát Đại Vương, ở trong thành Thục Châu chém giết một tháng, giết sạch người của Thục Châu.
Sau này quan binh của tân triều bức tới ngoài thành thế là hắn nổi lửa đốt thành sau đó mang theo người của mình trốn lên phía bắc.
Nhưng hắn vẫn lọt vào bẫy của quan binh triều đình ở sườn núi Phượng Hoàng và bỏ mạng.
Đội quân của hắn kẻ chết, kẻ hàng, kẻ chạy, chúng ta chạy thoát được nên vừa đi vừa đánh cướp.
Sau khi trải qua một thị trấn chúng ta phân ra và đi tới đây.
Các vị tráng sĩ, phía sau thật sự không có quân cứu viện đâu, ta nói đều là lời thật, cầu các ngươi tha cho ta!” Nhị Bảo vừa nghe nói toàn bộ dân cư của Thục Châu đều bị giết sạch thì đau xót.
Sư phụ của hắn ắt là không chạy thoát kiếp nạn này rồi! Ân Tu Trúc vỗ vỗ vai Nhị Bảo định an ủi hắn nhưng còn bận hỏi tiếp: “Cái tên Trương Hiến Trung kia tự xưng là Bát Đại Vương rồi thành lập Tây quốc ở Thục Châu rồi sao còn muốn giết sạch người ở đó?” “Nghe nói khi Bát Đại Vương còn niên thiếu có từng làm thuê cho người ta, chở hàng hóa qua lại.
Có lần hắn đi ngang qua một nơi tên là La Mã phố ở Thục Châu, không may con ngựa của hắn ị ra đó, một đường kéo tới cuối.
Người dân ở đó không vui nên chặn hắn lại một hai bắt hắn phải dọn sạch phân ngựa.
Dưới sự bức bách hắn đành phải dùng tay bốc phân ngựa, dùng ống tay áo chùi đường đi.
Nhưng có kẻ vẫn chưa bỏ qua cho hắn, còn bắt hắn phải liếm sạch chỗ phân ngựa còn dính trên đường.
Đêm đó hắn dừng chân ở một khách đi3m nhỏ gần phủ thành, ăn một món đặc sản của Thục Châu: Thịt luộc thái lát.
Cái món kia cay chảy nước mắt nước mũi, tới đêm hắn còn bị đay bụng muốn đi nhà xí.
Nhưng khách đi3m nhỏ làm gì có nhà xí tử tế, mọi người toàn phải ra mảnh đất hoang phía sau giải quyết.
Bát Đại Vương đi xong lại vơ đại một mảnh lá cây bên cạnh chùi đít, ai biết hắn lại hái trúng lá hoắc ma.
Cái thứ ấy không đụng phải thì thôi, vừa đụng phải đã có vô số gai nhỏ cào qua mông hắn.
Hắn đau quá gào lên, chỗ nào bị lá hoắc ma cọ qua đều nóng rát đau đớn.
Khi ấy hắn không nhịn được mắng: “Thục Châu là cái nơi quỷ quái, người thì hung ác, đồ ăn thì cay rát, ngay cả một cây cỏ hoang cũng bắt nạt người khác! Một ngày kia lão tử sẽ báo thù này, nếu không ta thề không làm người! Sau đó hắn vây lấy Thục Châu, thành lập Tây quốc và lập tức phát lệnh giết hết, ngoài đại miếu Tử Đồng ra mọi người ở Thục Châu đều không thoát được!” Tên kia vừa nói xong thì mọi người đều ngây ra, Ân Tu Trúc cũng ngây dại hỏi: “Mọi người ở Thục Châu đều bị giết hết rồi ư?” “Tráng sĩ, ta không dám có nửa lời nói dối, hiện tại thành Thục Châu đã sớm tan hoang, Bát Đại Vương đi qua chỗ nào thì gà chó cũng không tha!” Đào Trường Diệu căm hận mắng: “Đám súc sinh các ngươi tay dính đầy máu tươi, nợ máu chồng chất ắt không thể giữ được!” Đám phỉ tặc sợ quá khóc hô: “Tha mạng! Xin tha mạng! Chúng ta đều nói thật, các ngươi cũng đã hứa sẽ tha cho chúng ta một mạng rồi cơ mà?!” Nhưng bất kể bọn chúng có cầu xin thế nào Đào Trường Diệu vẫn vung tay lên để thôn dân lôi đám phỉ tặc này cùng đám thi thể trong bẫy rập tới chân núi phía đông chôn luôn dưới hố sâu! Đào Trường Diệu nói: “Đây cũng coi như ta giúp báo thù cho những oan hồn chết thảm trong tay chúng!” Ân Tu Trúc nói: “Tộc trưởng, chúng ta vẫn nên chặn lối rẽ lại, tuy những kẻ này nói không có viện binh nhưng chưa biết chừng lại có những kẻ khác chạy tới, phải phòng mới được!” Đào Trường Diệu gật đầu: “Giao cho ngươi sắp xếp đi! Ta cũng nghĩ thông rồi, chúng ta cứ trốn cũng không phải cách tốt, chỉ phải liều mạng.
Đây chính là những kẻ giết người như ngóe, chúng ta không thể nhân từ nương tay!” Mọi người trong Đào gia thôn đều tỏ vẻ tán thành.
Nay diệt được một toán giặc cướp khiến sĩ khí tăng vọt, bọn họ sôi nổi múa may binh khí gào to.
Đào Trường Diệu xua xua tay ý bảo mọi người yên lặng sau đó chậm rãi nói: “Còn phải cảm ơn Tu Trúc, lúc trước chúng ta tham sống sợ chết không dám phân cao thấp với đám giặc cướp này.
Nay trải qua một phen chúng ta cũng coi như thêm kiến thức, một tiểu đội giặc cướp có là gì, dù là một đại đội chúng ta cũng phải liều mạng kéo theo mấy kẻ! Mấy người các ngươi nhớ phải nghe lời Tu Trúc sắp xếp!”
Ân Tu Trúc nói: “Nữ nhân, trẻ nhỏ và người già trong thôn vẫn nên ở trong sơn động, nam nhân chúng ta thì chia làm hai đội.
Một đội phụ trách dọn đá ngăn đường, một đội phụ trách sửa bẫy.
Buổi tối chúng ta thay phiên nhau giám thị lối rẽ vào thôn, vừa có động tĩnh là phải nhanh chóng hành động.
Hôm nay tuy chúng ta lấy được thắng lợi, tích lũy được ít kinh nghiệm nhưng còn có rất nhiều chỗ thiếu sót.
Tối nay chúng ta lại bàn một phen, vạn nhất có kẻ địch tới nữa thì ta cũng có thể thong dong ứng phó!” Đào gia thôn cứ thế kiên trì hơn một tháng nhưng không thấy bất kỳ kẻ nào khác tới.
Lúc này mọi người mới yên lòng, các thôn dân cũng về nhà giải quyết công việc.
Việc ngoài ruộng và trong nhà dồn lại không ít nên vừa về nhà ai cũng vội khiêng cuốc ra đồng làm việc.
Phùng gia thôn phái người tới hỏi lúc nào có thể khai thông đường thế là Đào Trường Diệu thương lượng với mọi người sau đó dọn đất đá khôi phục lại con đường trước kia. Ân Tu Trúc muốn lên trấn trên thăm dò tình huống, dù sao bọn họ cũng đóng cửa thật lâu, không biết gì về bên ngoài.
Người của nhà họ Đào không an tâm nên để Đại Bảo và Nhị Bảo cùng đi với hắn. Ven đường đi bọn họ không gặp được ai, tới thị trấn rồi tình cảnh càng tang thương hơn.
Phòng ốc ở trấn trên đều bị đốt sạch, chỉ còn lại tàn tích cháy đen.
Dân cư may mắn còn sống đều mang vẻ mặt đưa đám mà nhìn đống phế tích còn lại của cửa hiệu nhà mình sau đó cố tìm kiếm những thứ còn dùng được.
Có người đã bắt đầu chuẩn bị xây lại cửa hàng. Duyệt Lai Phạn Quán cũng không thể may mắn thoát, cả tiệm ăn bị đốt chẳng còn lại gì.
Từ năm 13 tuổi Đại Bảo đã làm công kiếm tiền ở đây nên tình cảm với tiệm cơm cực lớn.
Nay hắn nhìn một mảnh khô cằn trước mặt thế là hắn không nhịn được thương tâm rơi lệ. Ân Tu Trúc an ủi: “Người còn sống là tốt rồi, sẽ có ngày chúng ta xây lại Duyệt Lai Phạn Quán!”
Đại Bảo gật đầu, trong lòng âm thầm thề nhất định phải xây lại tiệm cơm như cũ. Cách đó không xa truyền đến tiếng kêu nghẹn ngào, ba người Đại Bảo nhìn lại thì thấy là Phùng bà tử của tiệm tạp hóa.
Bà ta đang ngồi trong đống phế tích khóc rống lên: “Cái thứ tim phổi thối nát, cái thứ đáng chém ngàn đao kia! Bọn chúng đốt hết tâm huyết mấy chục năm của ta rồi, làm sao mà ta sống nổi đây!” Phùng lão nhân ở bên cạnh khuyên: “Được rồi, đừng khóc nữa, còn mạng là đã phải cảm tạ trời đất rồi.
Lúc trước mà không chạy nhanh thì giờ chắc ta với bà đều đã đi gặp Diêm Vương!” Phùng bà tử càng thêm thương tâm mà kêu khóc: “Đáng thương cho người nhà mẹ đẻ của ta, chết hết chẳng còn ai.
Người cả thôn đều chết sạch, đến đứa nhỏ mới sinh cũng không được tha.
Lũ giặc cướp đáng chém ngàn đao kia ắt sẽ không được chết tử tế, dù có chết cũng sẽ phải vào chảo dầu làm súc sinh! Còn cái tên Bát Đại Vương kia thì Phùng bà tử ta còn sống ngày nào sẽ nguyền rủa hắn ngày đó, để hắn không được chết tử tế!” Đại Bảo đi qua an ủi bà ấy: “Phùng nãi nãi, Bát Đại Vương đã chết một tháng trước rồi!” “Cái gì? Đã chết rồi à? Ha ha! Thật quá tốt, tên ma vương đã chết thì cả ngày ta sẽ rủa hắn không được siêu sinh, hồn phi phách tán! Ha ha!” Phùng bà tử vừa khóc vừa cười, còn nấc nữa.
Phùng lão nhân thấy thế thì đi tới nâng vợ dậy rồi thở dài.
Hai ông bà tựa vào nhau tìm băng ghế còn chưa cháy rồi ngồi xuống, bóng dáng lưng còng nhìn cực kỳ đáng thương. Nhị Bảo muốn tới Hồ thị y quán nhìn xem thế nào.
Dù sư phụ hắn không còn sống nhưng hắn vẫn muốn đi qua đó tế bái một phen.
Vì thế ba người tới trước một đống phế tích và thấy tấm biển ghi Hồ thị y quán vẫn còn nguyên nằm trên mặt đất, chung quanh đã mọc cỏ dại.
Nhị Bảo đỏ mắt ngồi xổm xuống lau tấm biển, miệng lẩm bẩm: “Sư phụ! Sư phụ!” “Là Vĩnh Lân sao?” Lúc này một giọng nói già nua truyền tới từ phía sau.
Nhị Bảo, Đại Bảo và Ân Tu Trúc đồng thời quay đầu lại chỉ thấy Hồ Khánh Hoa đang đỡ một ông lão đầu tóc bạc phơ xuống ngựa.
Phía sau bọn họ còn có mấy người nhà, và người vừa lên tiếng đúng là ông lão kia. “Sư phụ phải không? Sư phụ! Sư phụ!” Nhị Bảo đột nhiên đứng dậy nhào qua quỳ gối trước mặt Hồ lang trung mà khóc: “Sư phụ còn sống ư? Quá tốt, thật là quá tốt!”.