Phần lớn tướng lãnh đều không tán thành việc hội minh cùng Phong Tộc. Phong Tộc xâm chiếm Tây Châu, hiện tại còn đang đánh Ung Châu, tuy nói Tây Châu và Ung Châu đều là lãnh thổ của Yến Triều, nhưng hiện giờ Cố Liệt đã toạ ủng năm châu, ngày sau ắt sẽ thành chủ nhân thiên hạ, nếu hội minh cùng Phong Tộc xâm nhập phía nam, kể cả cuối cùng có đàm phán thành công, cũng sẽ để lại những tranh luận không cần thiết cho thanh danh của Cố Liệt. Đặc biệt là sau khi đánh hạ Thanh Châu, Trung Châu, từ mặt ngoài nhìn ra Sở quân đang chiếm hết thượng phong so với Phong Tộc và Bắc Yến, lương hướng sung túc, binh hùng tướng mạnh, cũng không có gì tất yếu phải kết đồng minh với Phong Tộc. Vừa không được tiếng tốt, vừa không phải lửa xém lông mày, vậy còn có cái gì để nói chuyện nữa? Nói cái gì mà nói, đánh là được. Ngoại trừ những người không tỏ thái độ, chỉ có Khương Dương và Chúc Bắc Hà minh xác tỏ vẻ có thể hội minh trước xem sao, không thể đồng ý thì lại đánh. Khương Dương nắm giữ mật thám của Sở quân, biểu hiện hung man ngoan tuyệt (1) của thủ lĩnh Phong Tộc Ngô Côn ở trên chiến trường để lại ấn tượng sâu sắc cho hắn.
Cho nên, Khương Dương cảm thấy, không bằng tới Ngư Lương xem thử, nhìn coi tên Ngô Côn này rốt cuộc là nhân vật như thế nào, cái này gọi là biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Tứ đại danh phiệt Bắc Yến đang nội loạn, trong đó có không ít công sức quấy nhiễu của mật thám Sở quân, Khương Dương cũng cảm thấy nếu lúc này đồng ý hội minh, thả ra tiếng gió, rất có thể sẽ thu hoạch được chuyện vui ngoài ý muốn, nhất tiễn song điêu. Còn về hội minh, nói chuyện mà thôi, thành hay không đều không sao hết. Ý của Chúc Bắc Hà rất đơn giản, hắn xuất phát từ bản chức, cho rằng các vị đang ngồi đây không lo việc nhà không biết củi gạo quý, nếu kết quả hội minh có lợi cho Sở quân, có thể không đánh thì sẽ không đánh, vừa tiết kiệm tiền vừa bớt việc.
Dù chỉ là hoãn qua mùa đông rồi mới đánh, cũng có thể tiết kiệm không ít trang bị chống lạnh. Khương Dương biết ăn nói, Chúc Bắc Hà lời ít mà ý nhiều, hai người bọn họ đều là nhân vật có tư duy rõ ràng và tinh tế, những tướng lãnh khác thật sự không nói thắng được hai người, khiến phòng nghi sự ồn ào y như cái chảo dầu lèo xèo. Cố Liệt dứt khoát cho bọn họ về ngẫm lại, ngày mai bàn tiếp. Địch Kỳ Dã vẫn luôn im lặng, chờ mọi người đi hết, mới thử thăm dò hỏi: “Chủ Công thiên hướng kết đồng minh với Phong Tộc?” Gần đây lễ nghi bên ngoài của Địch Kỳ Dã có tiến bộ, một câu một tiếng Chủ Công gọi đến lưu loát trôi chảy, vì thế Khương Dương còn rất cảm động, cho rằng Địch tiểu ca hiểu chuyện rồi. Đối với sự khích lệ của Khương Dương, Địch Kỳ Dã thản nhiên tiếp thu, Cố Liệt mỗi ngày ở tẩm điện ngươi tới ta đi với Địch Kỳ Dã, cảm thấy rất chi là cạn lời với hành vi mặt dày này của hắn. Bản thân Địch Kỳ Dã cũng thiên hướng đàm phán trước, cũng không phải Địch Kỳ Dã không muốn đánh giặc, mà là đang cân nhắc chiến thuật trì hoãn, ngoài ra còn có thù hận giữa Cố Lân Sanh và Phong Tộc năm đó, đổi chỗ để làm, hắn sẽ cho Phong Tộc một cơ hội để hoà đàm. Mặc dù trong lòng hắn cũng không xem trọng kết quả hội minh. Nguyên nhân căn bản nhất là, mặt ngoài Sở quân là thế lực mạnh nhất trong thiên hạ, nhưng trên chiến trường phong vân thay đổi xảo quyệt, rút một sợi dây động cả khu rừng, không phải cứ nhìn qua mạnh nhất là sẽ cười được đến cuối cùng.
Khi nào nên nhanh chóng lao tới, khi nào nên chậm rãi từ từ, những điều đó đều nằm ở chiến cơ, tướng lãnh ưu tú có thể nắm chắc chiến cơ, tướng lãnh bình thường bị chiến cơ nắm chắc. Phong Tộc là một đội quân báo thù với tác phong hung ác, câu cửa miệng nói quân đau thương tất sẽ chiến thắng, Sở quân đối đầu với Phong Tộc, cho dù đánh thắng cũng sẽ bị cắn xuống một miếng thịt. Bắc Yến bận rộn việc nội đấu, mắt thấy đã lung lây sắp sập, nhưng nó dù gì vẫn là thế lực vương triều rắc rối khó gỡ, con rết trăm chân chết cũng không ngã xuống, ai cũng không thể nói chắc liệu tứ đại danh phiệt có ở lúc hấp hối lại chợt tỉnh ngộ, cùng hợp tác đối ngoại. Địch Kỳ Dã không lạc quan mù quáng, cho nên càng tán đồng với ý kiến của Khương Dương và Chúc Bắc Hà. Cố Liệt khẽ lắc đầu: “Phong Tộc tất nhiên không phải thật lòng muốn kết đồng minh.
Chỉ là giằng co với Bắc Yến không xong, mới ra kế sách này tránh cho hai bề thụ địch.
Dù lúc này có đàm phán thành công, ngày sau cũng sẽ trở mặt.
Kéo dài chờ thời cơ mà thôi.” (2) Nghe ra quan điểm của bọn họ nhất trí, Địch Kỳ Dã yên lòng, bắt đầu hằng ngày xin bỏ lệnh cấm túc. “Một khi đã như vậy, sao Chủ Công không nhân lúc này tăng tốc độ đánh Tần.
Mạt tướng nguyện cống hiến sức lực khuyển mã (3).” Địch Kỳ Dã nhướng một bên lông mày, nửa thật nửa giả mà xúi giục. Cái gọi là không lạc quan mù quáng, là dành cho người khác, đối với chính mình, Địch Kỳ Dã từ trước đến nay rất tự tin, có hắn ở đây, kể cả hiện tại Cố Liệt muốn khởi binh đánh Phong, cũng không phải nói chơi. Lúc này mà phái Địch Kỳ Dã đi đánh Tần, Ngao Qua và Lục Dực nhất định sẽ tức điên, Cố Liệt cũng không tin Địch Kỳ Dã không nghĩ tới, thế nên căn bản không đáp lại câu này. Đối với Phong Tộc, so với Địch Kỳ Dã, Cố Liệt băn khoăn càng nhiều. Kiếp trước, Cố Liệt hoàn toàn không biết gì về ân oán giữa Phong Tộc và tổ phụ Cố Lân Sanh.
Trên thực tế, gia thần trẻ tuổi của Sở Cố, đồng thời chính là chủ lực hiện giờ của Sở quân, gần như đều không biết về việc này, mà thế hệ trước giấu kín như bưng, ngậm miệng không nói. Mãi cho đến khi Cố Liệt đăng cơ lập Sở, trùng tu truyện ký của Cố Lân Sanh, lúc ấy mới đào ra quá khứ xua đuổi Phong Tộc, khi đó Phong Tộc sớm đã bị giết đến tám chín phần mười rồi. Phong Tộc có tâm vấn đỉnh Trung Nguyên, Cố Liệt muốn vong Yến phục Sở, nhất định phải đánh bại đối thủ này. Đánh bại, mà không phải tiêu diệt, tiêu diệt Phong Tộc cũng không phải kế hoạch ban đầu của Cố Liệt. Kiếp trước Vương sư Sở quân hồi kinh, Ngao Qua lưu thủ Thục Châu cực kỳ bất mãn với chức trách ở lại trông coi này, chấp hành qua loa cẩu thả, từng bị kỵ binh Phong Tộc thành công xé rách tuyến phòng thủ, không chỉ một lần chiếm lĩnh ba thành trì ở biên cảnh Tây Thục, còn đồ sạch cả ba thành. Cố Liệt dù chưa tận mắt chứng kiến thảm cảnh ấy, nhưng qua những ghi chép vô cùng đau đớn của Khương Dương, cũng có thế tưởng tượng ra phần nào.
Sau khi trọng sinh, Cố Liệt nhiều lần cảnh cáo Ngao Qua, chính là vì lý do này. Kiếp trước tiêu diệt Phong Tộc, mặc dù sau đó biết được ân oán của Phong Tộc và tổ phụ, tuy Cố Liệt tự trách mình sơ suất, nhưng không hề hối hận. Vậy nên, lời mời hội minh Ngư Lương, kiếp trước Phong Tộc cùng từng gửi tới, nhưng dưới tiền đề tàn sát toàn bộ ba thành Tây Thục, lời mời này càng giống như một loại khiêu khích, Sở Cố căn bản sẽ không suy xét. Nhưng kiếp này không giống kiếp trước. Sau khi trọng sinh, nhờ Cố Liệt nhiều lần cảnh cáo, Ngao Qua đã tránh được thảm kịch đồ thành, đồng thời hắn cũng đã biết về ân oán của tổ phụ Cố Lân Sanh và Phong Tộc. Quan trọng nhất chính là, hắn rốt cuộc không có cách nào hoàn toàn xoá bỏ thái độ xử sự mà năm mươi thống trị thiên hạ đã để lại. Làm Chủ Công của Sở quân, chỉ cần so đo lợi và hại cho tranh bá trước mắt; làm đế vương Đại Sở, lại là quân phụ của thiên hạ, mười châu đều là đất của quân vương, vạn dân đều là dân của quân vương. Trải qua chính trị tàn khốc của Yến Triều thời kỳ cuối, trải qua suốt năm năm quần hùng tranh bá, thiên hạ này đã vỡ nát, đặc biệt là những châu thổ nằm ngoài vùng chiếm địa của Sở quân, dân chúng khổ đau vì chiến tranh, nhất là mấy năm chinh chiến liên miên đã hao tổn sinh cơ, vận số. Kiếp trước Cố Liệt hao hết tâm tư làm lợi cho dân, khen thưởng cày dệt, trải qua trắc trở, hao phí mười năm mới khiến cho thiên hạ một lần nữa toả ra sinh cơ, vui sướng hướng về phồn vinh. Hiện tại, có một cơ hội để hội minh hoà đàm, giảm bớt chiến tranh đặt ở trước mặt hắn, dẫu cơ hội ấy xa vời, hắn cũng không muốn nhất quyết bỏ qua. Nếu hoà đàm không thành công, hắn cũng có thể dựa vào đó mưu tính kế sách, tăng tốc độ giành lấy thiên hạ, đây là tự tin của Cố Liệt. Còn về hư danh, Cố Liệt đã sớm không để ý nhiều. Cố Liệt không để ý đến hắn, Địch Kỳ Dã lại chế nhạo nói: “Chủ Công đồng ý lời mời, có thể sẽ phải gánh thêm một cái thanh danh tư thông ngoại địch đấy.” Cố Liệt nhìn về phía Địch Kỳ Dã, kiếp trước chân chính có thanh danh tư thông ngoại địch cũng không phải là hắn, mà là cái người đang dõng dạc trước mắt này, lại còn trùng hợp cũng là lén gặp thủ lĩnh Phong Tộc.
Người này trước khi tự mình hành sự sao không chịu ngẫm thêm nhiều chút liệu bản thân có thể phải chịu tiếng xấu hay không? Nói đi lại nói lại, Địch Kỳ Dã một thân một mình, kiếp trước nghe nói Phong Tộc đồ thành, hắn là một trong số những người căm phẫn nhất, sau khi thiên hạ đã định, như thế nào lại chạy đi gặp lén thủ lĩnh Phong Tộc? “Trước khi mà quân quy còn chưa chép xong, cho ngươi ở lại trông Kinh Sở.” “……” Địch Kỳ Dã tức giận bất bình chạy mất. Ngày hôm sau bàn lại, cuối cùng quyết định, nửa tháng sau khởi hành, tới Ngư Lương hội minh. * Chờ đến khi Khương Dương gióng trống khua chiêng mà chuẩn bị đi, các tướng lĩnh mới kinh ngạc phát hiện, động tĩnh này của Chủ Công không giống như muốn đi hội minh, mà là muốn đi đánh đại quyết chiến. Nào có tham gia hội minh hoà đàm, còn mang theo cả nhà cả cửa đi cùng?
Vì thế tất cả mọi người mơ hồ ý thức được, đến lúc rồi. Thời khắc quyết định thắng bại cuối cùng của cuộc tranh bá này, sắp đến rồi. Cố Liệt đích thân cùng Khương Dương đi kiểm tra áo bông chuẩn bị cho quân lính, Chúc Bắc Hà làm việc không có gì để bắt bẻ.
Trên đường về đi ngang qua thành lâu, hắn nhất thời hứng khởi, cùng Khương Dương bước lên bậc thang, thăm quan thành lâu, nhìn về Vân Mộng Trạch (4) xa xa. Thành Kỷ Nam màu than chì, thành lâu cao lớn ánh lên sắc vàng dưới nắng, trong thành đài rộng gác cao, hiên đình so le, không giống thành trì thế gian, mà như chốn tinh cung.
Dòng sông chảy vòng quanh thành đổ vào Vân Mộng Trạch sóng nước nhẹ nhàng, Vân Mộng Trạch, nơi người Sở hồn khiên mộng nhiễu. Tổ tiên Sở Vương thời Chiến Quốc từng đi tuần săn thú tại đây, tổ phụ Cố Lân Sanh từng thụ phong Nhất tự tịnh kiên Vương tại đây. Cố Liệt hắn, ở sau hoạ diệt tộc, dẫn dắt người Sở đánh về thành Kỷ Nam, một tay tạo nên thuỷ sư vô địch tại đây. Gió lạnh phần phật, mặt nước Vân Mộng Trạch rộng lớn, trăm tàu nối nhau, thuyền lớn lui tới, thuỷ quân đại doanh đang huấn luyện, đội thuỷ sư này từng hoàn thành mộng tưởng trở về Kinh Sở, từng phá được hải tặc cát cứ Tín Châu, hiện giờ, vẫn là chiến lực không thể thiếu để thủ vệ biên giới đường biển, khiến cướp biển nghe thấy tiếng sợ vỡ mật, nhìn thấy cờ mà bỏ chạy. Nhưng, thời khắc vinh quang nhất của đội thuỷ sư vô địch này, đã là quá khứ. Hiện tại nhánh Sở quân này, cũng đã sớm không phải là Sở quân mà Cố Liệt cần phải làm gương cho binh sĩ, cầm thương giết ra hung danh “Hoả Phượng sát thần”. Bản đồ Sở Cố không ngừng mở rộng về phương bắc, Sở quân không ngừng lớn mạnh. Trong lòng Cố Liệt biết rõ, những tháng ngày oai phong một cõi trên chiến trường, không hề thuộc về hắn nữa. Tất nhiên, hắn vẫn còn có cơ hội lên sân đánh trận, nhưng đó không thể coi như đánh trận, chỉ là đứng giữa tầng tầng bảo vệ, đến nơi đó đốc chiến mà thôi. Hắn cũng không nhiệt tình yêu thương chinh chiến, nhưng nhiệt huyết hào hùng của những năm tháng sóng vai liều mạng, rốt cuộc khó quên.
Đặc biệt là đối với người không sinh ra được quá nhiều hỉ nộ như hắn. Tướng lãnh ưu tú nhiều vô số kể, còn có nhân vật thiên tài như Địch Kỳ Dã, trước mắt đã là thời khắc thuộc về bọn họ. Cố Liệt biết rõ chức trách của bản thân. Hắn ngóng nhìn thuỷ sư do một tay mình chế tạo, ngóng nhìn Vân Mộng Trạch mênh mông sóng khói, ánh mắt chuyên chú như đang từ biệt đi xa. Gặp lại, ước chừng sẽ là quyết chiến Dực Châu sang năm, đến lúc đó, chủ nhân thiên hạ này là ai, thắng bại sẽ phân. Đến lúc rồi. Từ đây, Bồng Sơn đường xa, đế vương ngồi cao. “Chủ Công,” Khương Dương dường như cảm ứng được, bỗng nhiên gọi. Cố Liệt cúi đầu cười cười, cuối cùng thả lỏng nói: “Đổi sang bộ áo giáp da đó đi, dù sao hiện giờ ta mặc áo giáp, cũng là chỉ là đồ vật để làm dáng, không bằng nhẹ nhàng một chút.” Khương Dương là người đi theo Cố Liệt suốt quãng đường chinh chiến thiên hạ, tự nhiên hiểu được Cố Liệt đang luyến tiếc rời xa chiến trường, nhất thời mềm lòng nói: “Kỳ thật cũng không cần sốt ruột……” “Không,” trái lại là Cố Liệt kiên quyết, “Đến lúc rồi, ta không thích hợp lại lãnh binh, cũng không nên tiếp tục lãnh binh.
Nhất định phải mặc áo giáp, ngược lại thành ra vẻ.” Chủ Công tự xét lại mình nghiêm khắc như thế, Khương Dương thở dài một tiếng. * Khi trở lại tẩm điện, Địch Kỳ Dã đang chép quân quy, bút của hắn đi như du long, chép xong một tờ ném một tờ, đầy đất đều là giấy. Địch Kỳ Dã sợ lạnh, tẩm điện chuyên môn đốt than tre làm lửa ấm cho hắn, đã như vậy rồi mà hắn còn đeo găng tay Cố Liệt chuẩn bị cho hắn, cũng không biết mùa đông người này làm thế nào đánh thắng trận được.
“Hoạt động sẽ hết lạnh, bị nhốt trong phòng đương nhiên lạnh rồi,” Cố Liệt không phát hiện bản thân đã hỏi ra tiếng, Địch Kỳ Dã lý trực khí tráng mà đáp. (5) Thôi đi, kiếp trước cũng không biết là ai đối mặt với cười nhạo của tướng lãnh cả hai bên địch ta, vẫn thản nhiên như thường đeo găng tay da đến tận tháng ba. Đôi găng tay da đó còn là Địch Kỳ Dã chuyên môn tìm thợ may làm, dùng loại da dê mềm nhất, mặt trong tỉ mỉ khâu thêm một tầng lông cừu mỏng, mặt ngoài làm vân chéo sần sùi, tuy xấu, nhưng vừa bám sát vào tay vừa không trơn tay.
Kỳ thật không ít tướng lãnh âm thầm tìm người học theo, dùng trong lúc huấn luyện, nhưng ngượng ngùng mang ra trên chiến trường. Đôi hiện tại trên tay Địch Kỳ Dã, là khoản cải tiến do kho vũ khí làm ra rất nhiều năm sau. Địch Kỳ Dã chép chép, tặc lưỡi một tiếng, vo tròn một tờ quăng ra ngoài, lăn đến bên chân Cố Liệt, Cố Liệt nhặt lên nhìn, hoá ra là một trong số đám thư mắng chửi của Vi Bích Thần, hẳn là Địch Kỳ Dã trong lòng vẫn không muốn chép cho hẳn hoi, vứt đủ thứ giấy lung tung lộn xộn khắp bàn, nên lấy nhầm. Vi Bích Thần này…… Cố Liệt ném cục giấy về trên bàn, hỏi Địch Kỳ Dã đang ngẩng đầu bất mãn: “Ngươi có cảm thấy lời nói của Vi Bích Thần rất quen không?” “Ngươi đang nói tới lão tặc đó?” Địch Kỳ Dã vừa nghe đã hiểu: “Chuyện này không có cách nào kiểm chứng.
Nếu Vi Bích Thần cũng là đồ đệ của lão ta, nhiều nhất cũng chỉ có ba người từng gặp Vi Bích Thần, một là người bắt hắn vào sơn cốc, một là đứa bé bị bắt vào sơn cốc thay thế hắn khi hắn xuất sư, một là lão tặc.
Đi đâu hỏi bây giờ?” Cố Liệt hồi tưởng lại những lời Địch Kỳ Dã từng nói, liên hệ với chuyện kỳ lạ Địch Kỳ Dã từng gặp lén thủ lĩnh Phong Tộc kiếp trước, men theo tìm kiếm manh mối: “Ngươi từng nói, bắt ngươi vào sơn cốc là một quái nhân? Từ quái nhân này, giải thích ra sao?” Nếu Chủ Công hỏi chuyện, Địch Kỳ Dã công khai ngừng viết, cầm bút ném vào bát sứ rửa bút, ánh mắt hắn đảo qua khuôn mặt Cố Liệt, không có hảo ý nói: “Nói trước, sự thật là như vậy, mạt tướng cũng không phải cố ý nói bóng nói gió Chủ Công.” Muốn chơi xấu liền bắt đầu khách khí, Cố Liệt không rõ lời này của hắn dựa vào đâu, học hắn nhướng mày. Địch Kỳ Dã ho nhẹ một tiếng, đứng đắn nói: “Người nọ khoảng chừng mười tám mười chín tuổi, rất chú ý ăn mặc, lớn lên cũng tuấn tú lịch sự, nhưng mặt hắn bị hỏng.” Cố Liệt nghi hoặc: “Mặt bị hỏng?” “Mặt hắn cứng đờ, rất khó thể hiện biểu cảm, nhưng ngữ khí âm điệu nói chuyện lại vẫn bình thường, hơn nữa cảm xúc còn rất phong phú, cho nên hắn vừa mở miệng, lập tức khác thường đến đáng sợ.” “Ta từng thấy hắn dùng ngân châm dài đâm vào các huyệt vị trên mặt, khi ấy mặt của hắn đột nhiên mất khống chế, cả một bên xệ xuống, khoé miệng chảy nước miếng, hắn nói do quên uống thuốc.” “Hắn muốn thuyết phục ta bái sư, vẫn luôn nói sư phụ hắn là người tốt, hắn sinh bệnh cũng không bỏ rơi hắn, còn giúp hắn nghiên cứu cách châm cứu và làm thuốc.
Nhưng ngươi nghe, lời này căn bản đã không bình thường.” “Có điều ta cảm thấy tâm địa người này không xấu lắm, chỉ là bị dạy hư, đương nhiên, ta cũng không muốn gặp lại hắn.” Cố Liệt nghe xong, việc này xác thật ngoằn ngoèo giống tâm tư của Vi Bích Thần, nhưng vấn đề không phải ở chỗ này: “Cho nên, ý của ngươi là, mặt ta cũng hỏng?” “Ý của mạt tướng không phải như vậy,” Địch Kỳ Dã nhìn thẳng vào đôi mắt Cố Liệt, “Chủ Công hoàn toàn ngược lại.
Hắn là mặt không động, Chủ Công là tâm không động.” Cố Liệt cũng không rõ có phải mình nên tức giận hay không, hắn sớm biết Địch Kỳ Dã nhìn thấu sự quạnh quẽ quá mức của hắn, nhưng hắn không ngờ Địch Kỳ Dã thật đúng là có gan nói ra ngay trước mặt hắn. Nhưng ngẫm lại, đời này Địch Kỳ Dã dám nói ra, dù sao vẫn còn tốt hơn kiếp trước cái gì đều không chịu nói, cuối cùng vô thanh vô tức làm một phát sét đánh giữa trời quang. Làm Chủ Công làm đến mức này, chắc chỉ có độc nhất mình hắn. Đáy lòng Cố Liệt tự giễu. Địch Kỳ Dã thấy Cố Liệt không phản bác, quanh co lòng vòng thử khuyên nhủ: “Ta cảm thấy, người tồn tại, nên cho phép mình có chút lạc thú.” Kiếp trước kiếp này, Địch Kỳ Dã đại khái nhất định phải làm đại phu cho hắn. Chính mình bệnh thành như vậy còn đi xem bệnh cho người ta, không đáng tin cậy hơn cả Nhan Pháp Cổ đoán mệnh. Cố Liệt buồn cười mà nhìn Địch Kỳ Dã, hỏi ngược lại: “Vậy còn ngươi?” “Ta làm sao cơ.” Địch Kỳ Dã nghi hoặc khó hiểu. “Ngươi,” Cố Liệt nhớ tới bản tính ngang bướng như lừa dắt không đi đánh lùi lại của người này, thở dài dưới đáy lòng, “Quân quy của ngươi chép xong rồi?” Địch Kỳ Dã đảo trắng mắt, thập phần bất mãn mà vén tay áo, đổi một cây bút, chấm mực, không để mắt cũng không để tâm bắt đầu chép tiếp. * Lúc này, phía đông thành Kỷ Nam. Đạo quan Nguyên Nhất đã từng đỉnh đỉnh đại danh, nay xập xệ trống vắng không một bóng người, cỏ hoang mọc thành cụm, bóng ma quỷ quái, không giống một đạo quan, ngược lại như một cái ổ ma quỷ.
Nhan Pháp Cổ mặc một bộ đạo bào vải thô đã giặt đến trắng bợt, trong tay cầm phất trần cũ còn xách theo một túi vàng mã. Hắn từng xuất gia ở đây, từng đau đớn mất đi yêu thương chân thành ở đây, từng chém chết người ở đây. Hắn đứng trong đạo quan, trong miệng niệm tụng kinh văn, trong tay cầm tiền giấy màu tuyết trắng, từng tờ từng tờ ném vào không trung, bị gió lạnh cuốn lên cao, lại lơ lửng dập dềnh mà rơi xuống, như tuyết bay vô bờ. Nhan Pháp Cổ từng có một nữ nhi hắn vô cùng yêu thương, thê tử của hắn chết vì khó sinh, Nhan Pháp Cổ tự tay nuôi lớn nữ nhi, lớn lên thông minh thuần khiết, lanh lợi đáng yêu. Cô bé còn chưa có đại danh, mệnh cách của cô bé quá tốt, Nhan Pháp Cổ sợ đại danh sẽ đè hỏng mất nó, nên chỉ đặt một nhũ danh, gọi là Tiểu Quai. Đến nay hắn vẫn còn nhớ rõ, ngày hè nắng gắt, hắn làm đạo tràng pháp sự, miệng niệm kinh niệm đến khô nứt, về nhà, Tiểu Quai bé nhỏ múc nước giếng cho hắn uống, đau lòng ôm lấy cổ hắn. Một đứa trẻ tốt như vậy, sao có kẻ lại nhẫn tâm hại nàng. Yến Triều thối rữa, tứ đại danh phiệt hoành hành ngang ngược, chỉ là một nhà chi thứ của Vương gia thôi, cũng đã hống hách ương ngạnh.
Trong nhà có một đứa bé trai sơ sinh đã chết, vậy mà lại gióng trống khua chiếng muốn kết âm thân sống, tìm nữ hài nhi bát tự tuyệt phối kết minh hôn thật.
Âm thân sống, minh hôn thật, tên như ý nghĩa, là phải tìm một nữ hài nhi còn sống, đưa xuống âm phủ, làm vợ cho đứa bé sơ sinh còn chưa thành hình đó. Gã đạo sĩ tính ra bát tự của Tiểu Quai, dẫn theo người của Vương gia bắt đi Tiểu Quai, tự tay dốc khô máu của Tiểu Quai, tính theo bối phận của đạo quan Nguyên Nhất, Nhan Pháp Cổ phải gọi gã một tiếng sư thúc. Tên súc sinh đó là sư thúc của hắn. Tiểu Quai bị dốc cạn máu mà chết, Nhan Pháp Cổ không thể để tên súc sinh đó sống tử tế như vậy. Hắn cũng không muốn làm bẩn đôi mắt của Tiểu Quai, liền ở đạo quan này, tự tay chém chết tên súc sinh đó. Nhan Pháp Cố nhớ rõ lúc ấy có kẻ gào to, Nhan Pháp Cổ ngươi không bằng cầm thú! Hắn rất muốn hỏi kẻ đó một chút, rằng có dám đối với Vương gia, mắng một tiếng không bằng cầm thú hay không. Nhan Pháp Cổ hắn liền dám, ngày đầu thất của Tiểu Quai, hắn mắng như tát nước ngay giữa pháp hội cầu phúc cho hoàng đế, hô to “Sở Vương chết oan, bạo Yến tất vong”.
Hô xong, hắn vừa chạy vừa cười, vừa chạy vừa cười, nếu không phải trên đường chạy gặp được Chủ Công, chỉ sợ đã bị đám chó săn của Yến Triều chém chết. Nhan Pháp Cổ rải hết vàng mã, lại lấy từ trong túi ra hai bình rượu mạnh hắn trộm từ chỗ Khương Dương, giơ tay nện một bình lên củi lửa. Lửa hừng hực phóng lên cao. Nhan Pháp Cổ ngồi trên ngạch cửa uống rượu, ngạch cửa này thật cao quá, phải quyên biết bao nhiêu tiền mới có thể xây một ngạch cửa cao như vậy ở đạo quan? Nhan Pháp Cổ không biết. “Tiểu Quai, Tiểu Quai à.” Nhan Pháp Cổ lẩm bẩm gọi tên nữ nhi, phảng phất dường như cô bé vẫn đang chơi đùa bên gối, “Cha cuối cùng sắp đi báo thù cho con rồi.” Khương Dương chờ hắn dựa vào đại môn ngủ rồi, mới cho thân binh nâng hắn lên, cẩn thận đưa về nhà. Sau đó hắn nhìn về phía đạo quan cháy rực ánh lửa, dặn dò nói: “Sau khi lửa tắt, phá bỏ nó đi.” Nơi không sạch sẽ như thế này, vốn không nên giữ lại. * Nửa tháng sau, Cố Liệt tự mình chủ soái Vương sư đi lên phía bắc, mênh mênh mông mông hướng tới Tần Châu. ——————————————————— Chú thích: (1) Hung man ngoan tuyệt: hung hãn, dã man, tàn nhẫn, tuyệt đường sống (2) Kéo dài: nguyên văn là ‘Tha tự quyết’, là một trong những đạo làm quan, trì hoãn, kéo dài sự việc, chờ đợi cơ hội, chờ đợi thời cơ chín mùi (3) Khuyển mã: cách xưng của bề tôi với bề trên (4) Vân Mộng Trạch: hay Vân Mộng Đại Trạch là một trong những hồ đầm nước ngọt (trạch) lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc, thời điểm lớn nhất diện tích lên đến 40k km vuông.
Vân Mộng (vùng) khác với Vân Mộng Trạch (hồ nước).
Đã sửa và bổ sung lại ở những chương trước. (5) Lý trực khí tráng: cây ngay không sợ chết đứng, có lý chẳng sợ.