Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm

35: Tin vui của Trường Bách


trước sau

Kỳ thi mùa xuân thường tổ chức vào trung tuần tháng hai, năm nay bởi vì thân thể lão hoàng đế không khỏe nên kéo dài tới đầu tháng ba. Trường Bách cùng Tề Hành giữa tháng hai đã xuất phát. Từ khi cậu ta đi, Vương thị mỗi ngày đều thắp hương bái Phật tụng Đạo, khiến trong phòng sương khói mù mịt. Người bên ngoài còn tưởng rằng Thịnh phủ có hỏa hoạn, suýt nữa cho đội tưới nước tới. Minh Lan mỗi lần đến chỗ Vương thị thỉnh an đều bị hun cho hai mắt đỏ lừ. Thịnh Hoành ngay từ đầu đã trách cứ mấy câu “Tử bất ngữ quái lực loạn thần”[‘], nhưng theo tin tình báo đáng tin cậy, ông ta cũng lén bái lạy vài cái.

[‘]Khổng Tử không nói về bốn điều: quái dị, dũng lực, phản loạn, quỷ thần.

Kỳ thi kiểu này kéo dài ba ngày, mỗi đợt như đày đọa, thi đậu cũng coi như lột đi một lớp da. Tề Hành vừa ra khỏi trường thi đã được người làm của phủ Tề quốc công khiêng về. Trường Bách kiên cường tự mình bước lên xe ngựa, sau đó được Trường Ngô chuẩn bị làm Vệ Võ Học ở kinh thành đón về nghỉ ngơi. Bởi vậy tin mừng tới sớm hơn các thí sinh khác một bước, Trường Bách đỗ hàng thứ năm bảng nhị giáp[‘].

[‘] Hay còn gọi là hoàng giáp, đứng sau đệ nhất giáp gồm tam khôi (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) và đứng trên đệ tam giáp hay còn gọi đồng tiến sĩ.

Vương thị vui mừng quá đỗi, lập tức nghĩ tới đốt pháo tưng bừng, phát tiền chẩn gạo, lại bị Thịnh Hoành vội vã ngăn lại - Tề Hành thi rớt.

Tề đại nhân thì không sao, ông ấy biết kiểu như Trường Bách mới thi một lần đã đậu rốt cụộc cũng là hàng hiếm có khó tìm, như lông phượng hoàng với sừng kỳ lân. Đa phần các thí sinh đều thi hai ba lượt mới đỗ, cũng có người thi mười mấy năm cũng chẳng đỗ đạt gì, nhưng sắc mặt quận chúa Bình Ninh thì lại đen như đít nồi.

Tề gia giao thiệp rộng, cho dù chết cũng phải rõ ràng. Tề quốc công thỉnh giáo quan chủ khảo lần này. Vị đại nhân kia vuốt râu rồi ném ra mấy câu văn vẻ, ý là: Thí sinh nhà người ta vì cuộc thi mùa xuân mà giản lược mọi chuyện, sau khi thi Hương liền đóng cửa đọc sách. Tề gia thì ngược lại, sợ Đăng Châu không đủ náo nhiệt, còn chạy về kinh thành mừng năm mới, để Tề Hành này một hai tháng chìm trong ca hát tiệc rượu, cưỡi ngựa xem hoa, tận hưởng đủ mọi cảnh vui, lúc chỉ còn nửa tháng cuối cùng thì nước đến chân mới nhảy, như vậy há có thể thi đỗ?

Quận chúa Bình Ninh hối hận không kịp, Tề đại nhân hiểu ra, vỗ đùi: Khó trách lế mừng năm mới củaThịnh phủ lại thanh đạm như vậy, ra là thế! Sớm biết vậy đã để con trai ở Đăng Châu mừng năm mới, đối với Thịnh Hoành không khỏi thêm phần kính trọng -- rốt cuộc cũng là xuất thân từ khoa cử, tất là có kinh nghiệm.

Lại qua vài ngày Hàn Lâm Viện kiểm tra lại, Trường Bách được chọn làm Thứ Cát Sĩ[‘], biên soạn ở Lưu Quán Thụ, năm sau nhậm chức. Tới cùng tin này là hôn sự của Trường Bách cũng được ấn định, ý trung nhân là cô Hai con vợ cả họ Hải ở Giang Ninh[‘], là thư hương thế gia. Cả nhà đều thanh quý, cha cùng anh đều làm quan trong triều. Đối với hai sự kiện này, phản ứng của Thịnh Hoành với Vương thị không giống nhau.

[‘]Thứ Cát Sĩ, là quan viên của Hàn Lâm Viện thời Minh Thanh, làm cận thần của Hoàng Đế, phụ trách thảo ra chiếu thư, có thể đảm nhiệm trọng trách giảng giải kinh thư cho Hoàng Đế, là một trong những phụ thần nội các quan trọng nhất.

[‘]Giang Ninh thuộc Nam Kinh ngày nay.

“Khó khăn lắm Bách Nhi mới thi tốt như vậy, vì sao không để nó ra ngoài làm quan, lại vào cái chỗ Hàn Lâm Viện quạnh quẽ kia mà ngồi cho khổ chứ!” Vương thị khóc lên khóc xuống, còn oán trách Thịnh Hoành, “Lão gia không phải đã nói sao, cùng vài vị chú bác dẫn Bách Nhi bái môn trình thiếp, khơi thông quan hệ, sao lại đi làm loại quan phẩm cấp thấp như Thứ Cát Sĩ.”

“Đúng là tầm nhìn của đàn bà [‘]! Nàng có biết cái gì không, Hàn Lâm Viện là nơi thanh quý, Bách Nhi tuổi còn nhỏ, nếu để nó ra ngoài, ngược lại sẽ trở nên tầm thường!” Thịnh Hoành thấy một phen tâm huyết của mình bị Vương thị coi không đáng một đồng, giận muốn chết.

(Bởi vì trước đây phụ nữ bị khinh thường, câu này có ý dùng để so sánh tầm nhìn hạn hẹp.)

Vương thị không biết Hàn Lâm Viện có cái gì mà thanh với chả quý, chỉ biết Hàn Lâm học sĩ đều kham khổ, bần hàn. Chỉ có điều nàng hiểu rõ Thịnh Hoành trên phương diện này so với mình có kiến thức nhiều hơn, nên không nói thêm nữa, nhưng chuyện khác càng khiến nàng lo lắng hơn.

“Cái này thì cũng thôi, dù sao đàn bà con gái bọn thiếp cũng không am hiểu, nhưng rốt cục Bách Nhi cũng là do thiếp sinh ra, chuyện cưới con dâu cũng là chuyện duy nhất thiếp thể làm chủ. Lão gia đến nay nói cũng chẳng nói với thiếp một câu, đã mời chú Cảnh đi làm mai, người làm mẹ ruột như thiếp tới lúc này mới biết được dâu mình là con gái nhà ai! Lão gia đặt thiếp ở vị trí nào?!” Vương thị càng thêm tủi thân, liên tục cúi đầu gạt lệ.

Thịnh Hoành ngồi cạnh bàn sưởi, cầm một tách trà Thành Diêu[‘] phấn hồng có chân đế lên nhấp một ngụm, cười khẩy nói: “Đừng cho là ta không biết, nàng nhắm trúng con gái chị Cả nhà nàng, nếu không phải ta tiên thủ hạ vi cường[‘], e là tháng này nàng sẽ mời cháu gái ngoại tới đây ở, đúng chứ!”

[‘] Cái này là trà đạo tớ không rõ lắm, đây là một cách sao trà phức tạp.

[‘] Ra tay trước chiếm ưu thế, xuất phát từ binh pháp Tôn Tử.

Vương thị bị một câu nói trúng tim đen, dứt khoát vứt ngay cái khăn xuống kháng, hai mắt trừng lên: “Duẫn Nhi có cái gì không tốt? Có tri thức hiểu lễ nghĩa, vẻ ngoài suất sắc, đầu óc thông tuệ, lại là con cô con bác đằng ngoại với Bách Nhi, hai bên hiểu rõ lẫn nhau, thiếp thấy không có ai tốt hơn!”

“ĐÚNG! Chính là biết gốc biết rễ!” Thịnh Hoành đặt mạnh tách trà xuống kháng: “Chuyện khác không bàn tới, gia thế của anh vợ tốt như vậy, hiện giờ chức quan còn không bằng ta. Mấy năm trước có đại tang cha mất, thế mà lại sinh hẳn mấy đứa con liền. Ngự Sử hạch tội anh ấy trong kỳ để tang còn nạp thiếp, bị cách chức mà thỏa nguyện làm quan viên nhàn rỗi còn gì. Anh ấy chẳng suy nghĩ làm sao để khơi thông quan hệ, ngược lại còn nạp thêm người, lại còn ngày ngày cùng mấy loại văn nhân ngâm gió ngợi trăng bàn luận triều chính! Đây chính là thông gia mà nàng muốn?”

Vương thị tủi hổ không chịu nổi, mỉa mai đáp lời: “Cho dù hiện giờ lão gia ngại Khang gia lụi bại, cũng không nên tìm Hải gia kia chứ. Nhà họ có gia quy mệnh lệnh rõ ràng, con cháu đến bốn mươi tuổi mà chưa có con mới được nạp thiếp, làm con dâu nhà họ thì tốt rồi, nhưng mà con gái nhà họ có thể như thế sao? Thiếp nghe nói cô Cả của Hải gia sau khi gả đi rồi, ba ngày hai lượt ngỗ nghịch với mẹ chồng, không cho chồng nạp thiếp. Dòng dõi Hải gia lại cao, như vậy có khác nào mời Bồ Tát sống vào cửa, lão gia bảo thiếp làm mẹ chồng thế nào đây!”

Thịnh Hoành mắng: “Nói lời vô nghĩa! Nếu không phải như vậy thì nhà chúng ta làm sao mà kết thông gia cùng Hải gia! Chỉ cần nàng không sinh sự tìm cách nhét người vào trong phòng của Bách Nhi, ngoan ngoãn làm mẹ chồng thì mọi chuyện đều ổn!”

Hai vợ chồng cãi nhau môt trận, cụt hứng bỏ về.

Vương thị cực kỳ không cam lòng, bèn đến trước mặt lão phu nhân khóc lóc, muốn lão phu nhân làm chủ cho mình.

Thịnh lão phu nhân nửa nằm trên nhuyễn tháp, khép hờ hai mắt, nghe Vương thị khóc lóc kể lể xong, nhẹ nhàng vỗ vai nàng, thở dài: “Lão gia không phải người vô cớ sinh sự, Khang gia kia hiện giờ rốt cục như thế nào? Tuy nói Khang gia cùng nhà chúng ta cũng là quan hệ thông gia, nhưng mà cuối cùng cũng không quan trọng bằng tiền đồ của Bách Nhi, phu nhân phải thận trọng.”

Vượng thị biết Thịnh lão phu nhân nhìn có vẻ không tranh cùng đời, nhưng thật ra trong lòng đều hiểu được, nên khóc càng dữ dội, đến mức choáng váng đầu óc, dứt khoát mở miệng nói: “… Anh rể cũng không biết phấn đấu, hiện giờ bên cạnh chị con lại có thêm mười mấy đứa con trai con gái vợ lẽ, không biết làm sao mà đám phụ nữ lộn xộn không biết trên dưới đó đông sinh một đứa, tây sinh một đứa, chen chúc chật ních cả phòng! Chị con phải chăm nom một đám người như vậy, cưới vợ thì phải có sính lễ, lấy chồng thì phải có hồi môn, anh rể thì chỉ biết làm quan không kiếm chác được gì. Hồi môn của chị con không biết đã thâm hụt bao nhiêu rồi, nếu chị ấy không chịu thì những vị chú bác ăn không ngồi rồi trong tộc sẽ nói chị ấy không hiền đức! Chỉ sợ Khang gia bây giờ đã là cái thùng rỗng rồi, cũng may con trai chị ấy coi như biết phấn đấu, mấy năm trước được làm chủ sự lễ bộ. Người làm em như con, dù sao cũng nên giúp đỡ đôi chút, huống chi dòng dõi Khang gia cũng không coi là bôi nhọ thể diện nhà chúng ta mà.”

Thịnh lão phu nhân nhìn làn khói lượn lờ quẩn quanh tỏa ra từ huân hương vân hoa bằng kim loại, thở dài rồi dịu dàng nói: “Phu nhân vẫn là người có lòng tốt, có thể nói ra mấy lời xuôi tai như vậy, chị em đã thân lại càng thân hơn! Aiz… Ta cũng từng làm mẹ chồng, cũng hiểu tâm tư của phu nhân, chẳng qua là sợ Hải gia kia gia thế cao, sau này không áp chế được con dâu, hử -?”

Ánh mắt sắc bén của Thịnh lão phu nhân quét đến. Vương thị cảm thấy chột dạ, kỳ thật tình cảm của nàng cùng với chị Cả nhà mình cũng cũng không thật sự tốt cho lắm. Năm đó, lúc còn con gái đã từng cãi nhau ầm ĩ. Thế nhưng sau này Thịnh gia cùng Khang gia cái này mất đi cái khác lại tới, tình hình thay đổi, chị của nàng thường gửi thư ai oán tố khổ, vài năm trước đã bắt đầu thuyết phục ý đồ kết thân, nói lời ngon tiếng ngọt lấy lòng khiến nàng cực kỳ khoan khoái.

Thịnh lão phu nhân nhìn sắc mặt Vương thị không chắc chắn, nhẹ nhàng vỗ vai Vương thị: “Lúc đầu Từ gia cũng có vài người họ hàng tới làm mai với lão gia, ta đều kiên quyết mời về. Vương gia các con vốn không thân quen với nhà chúng ta, nhưng mà bà già này vẫn mong con tới làm dâu. Con đường làm quan của lão gia lúc đầu có thể thuận lợi có một phần không nhỏ là nhờ bên thông gia, con lại sinh con dạy cái, lo liệu gia vụ, hôm nay ta dám nói một câu này: Không hối hận ngày đó đã cưới con về! Thương thay tấm lòng mẹ hiền trong thiên hạ, tiền đồ của Bách Nhi cùng sự hài lòng của phu nhân, cái nào nặng cái nào nhẹ?”

Vương thị nghe nói đến mặt đỏ bừng, nghĩ tới mình là dâu cũng không làm tròn trách nhiệm, bắt đầu ngượng ngùng, thu lại cái khăn rồi cẩn thận suy nghĩ.

Thịnh lão phu nhân lại nói: “Con cũng không cần lo lắng, Khổng ma ma từng nói với ta về nhân phẩm đức hạnh của cô Hai nhà họ Hải kia rồi, tất cả đều tốt, có thể làm mẹ chồng con dâu hòa thuận. Cháu gái ngoại của phu nhân bên Khang gia kia, phu nhân có đề ra phép tắc mẹ chồng, có thể thẳng tay dạy dỗ được không? Quay lại với tiền đồ của Trường Bách, phong hào cáo mệnh tất nhiên không thiếu phần phu nhân, chẳng phải rất tốt sao?”

Vương thị nghe nói thế thì động tâm, ngẫm lại cũng đúng, nhớ tới phương thức giải thích qua quýt lỗ mãng của Thịnh Hoành, tủi thân mà nói: “Con cũng không phải người không biết lý lẽ như vậy. Nếu như lão gia cũng nhẹ nhàng khuyên bảo con như thế, thì con cũng đâu cần đến chỗ lão phu nhân làm xấu mặt thế này. … Chỉ là Duẫn Nhi làm sao bây giờ? Con bé cũng mười bảy rồi, anh rể hiện giờ cũng không làm quan, cao không được mà thấp không xong, chẳng nhẽ lại lỡ làng chuyện hôn nhân của con bé.”

Thịnh lão phu nhân mỉm cười, dịu dàng kéo tay Vương thị: “Phu nhân cảm thấy Ngô Nhi bên đằng nội như thế nào?”

Vương thị nghe xong lời này thì sửng sốt: “Ý của lão phu nhân là…”

Thịnh lão phu nhân thản nhiên nói: “Tuy nói Khang gia là thế gia, nhưng hôm nay làm quan cũng chỉ có một người là cháu ngoại trai của con. Nói đến gia sản, phu nhân rõ hơn so với ta. Bác cả Duy của con tuy rằng không dám nói gia tài bạc triệu, nhưng cũng là nhà sung túc, của cải dồi dào. Nhà bác ấy cũng chỉ có hai anh em, về sau Ngô Nhi ở riêng cũng dư dả. Nhân phẩm của Ngô Nhi thì người làm thím như con chắc rõ nhất, mấy năm nay ở kinh thành một thân một mình thành thật cầu tiến, chưa từng có dù chỉ là một chút tâm địa gian xảo, lại nói đây cũng là chuyện tốt đã thân càng thêm thân.”

Vương thị chần chờ nói: “Chỉ là… Chung quy cũng là thương nhân…”

Thịnh lão phu nhân thấy bộ dạng này của Vương thị thì khóe miệng hơi nhếch lên, muốn nói mỉa vài câu, lại nuốt xuống, nói thẳng: “Ngô Nhi đã được tiến cử làm Trung Uy Vệ Trấn Phủ, đảo mắt một cái là nhậm chức rồi. Thằng bé vừa có chức quan vừa có nhân phẩm, gia tài lại dư dả, nếu không phải nhân duyên không tốt thì cũng không cần phải nhờ vả chuyện hôn nhân, thì bà chị dâu già như ta cũng chẳng ôm chuyện vào người. Nếu phu nhân thật sự cảm thấy không tốt, thì quên đi, ta đi hỏi thăm con gái nhà khác cũng được.”

Vương thị vừa nghe thế thì vội nói: “Lão phu nhân đừng vội, để con viết thư cho chị con. Đây quả thật là một cửa hôn nhân cực kỳ tốt, chắc là chị con cũng hiểu được.”

Nói xong thì vội cáo từ mà đi, nhìn thấy bóng dáng hấp tấp của Vương thị, Thịnh lão phu nhân thở dài một tiếng, chợt nghe thấy tiếng mành sột soạt ở phía sau, cũng không quay đầu mà nói: “Con bé này, nghe đủ chưa, còn không đi ra!”

Chỉ thấy Minh Lan dụi mắt, khuôn mặt ngái ngủ nhỏ nhắn trắng hồng đáng yêu, trên hai gò má vẫn còn in dấu vết của cái gối, chỉ khoác một cái áo tơ tằm màu phấn hồng thêu cành ngọc lan, bước từng bước từ trong buồng ra, nhào vào lòng của lão phu nhân, con sóc nhỏ uốn éo người vươn ra trên kháng. Thịnh lão phu nhân vội vàng đưa tay ra ôm cô cháu gái bé bỏng vào ngực, lại nghiêm mặt nói: “Bảo con về ngủ trưa, lại muốn ở lại chỗ này của ta, chắc là bị đánh thức chứ gì.”

Minh Lan ôm cổ bà nội, giọng nói mềm mại: “Bà nội, có phải con có chị dâu mới không?”

“Cái con bé này giả bộ cái gì chứ? Không phải là nghe thấy hết rồi sao?” Lão phu nhân vỗ một cái vào lưng Minh Lan.

Minh chớp mắt giảo hoạt: “Bà nội, cái chị nhà họ Hải kia thật ra là bà nghĩ tới đúng không?”

Thịnh lão phu nhân liếc Minh Lan một cái, quét mắt ra cửa sổ. Thúy Bình ở một bên hiểu được, xoay người đi kiểm tra một lần. Lão phu nhân vuốt tóc Minh Lan nói: “Cũng là bà của con nhiều chuyện, cưới con dâu vốn là chuyện của người làm mẹ đẻ, lại phiền đến bà nội con, thôi thôi, Bách Nhi rốt cuộc cũng là đích tôn nhà ta, cuối cùng cũng không thể xem nhẹ được.”

Minh Lan ngẩng khuôn mặt tươi cười, hồng hào trong sáng ngây thơ: “Cha cùng mẫu thân là vợ chồng cầm sắt cùng minh, tương kính như tân, nhất định là đối với bản lĩnh mai mối của bà cực kỳ hài lòng.”

Thịnh lão phu nhân nghiêm mặt muốn mắng, nhưng lại không nhịn được nở nụ cười, chỉ véo cháu gái hai cái, lắc đầu nói: “Anh Cả của con bây giờ so với cha con năm đó thế mạnh hơn rất nhiều, có một người cha vừa mới thăng chức thành ngũ phẩm, có một anh rể ở phủ Trung Cần bá, còn có một người cậu danh giá, cho dù là Hải gia thư hương thanh quý cũng không thể khinh thường.”

Kỳ thật ngay từ đầu Hải gia đã không coi trọng Trường Bách, cảm thấy Thịnh gia gia thế không vững vàng. Nhưng Thịnh lão phu nhân cực kỳ tin tưởng, năm đó Vương gia cũng từng do dự chuyện hôn nhân của Thịnh Hoành. Chỉ có điều lúc Thịnh lão phu nhân đưa Thịnh Hoành tới cửa bái phỏng, lão phu nhân của Vương gia vừa nhìn thấy Thịnh Hoành ngọc thụ lâm phong, ôn tồn lễ độ thì lập tức đông ý -- có cái gọi là mẹ vợ nhìn con rể, càng nhìn càng vừa mắt.

Thao tác mở màn của Thịnh lão phu nhân rất lão luyện, lần này cũng để cho bác gái Cảnh dẫn Trường Bách đi bái thiếp. Phu nhân Hải gia vừa nhìn thấy Trường Bách khí chất quang minh, dáng người thẳng tắp, trong lòng đã đồng ý một nửa, cũng không biết tiểu thư Hải gia kia có cách mành nhìn trộm không, nếu có, đoán chừng cũng mê mẩn rồi.

Đương nhiên chuyện này Minh Lan cũng không biết. Thịnh lão phu nhân lại nói: “Tiểu thư Hải gia kia vài năm trước Khổng ma ma từng kể với ta, đức dung công ngôn đều không tồi. Phiền nhất chính là đàn ông Hải gia đều không nạp thiếp, cho nên cũng nuôi ra con gái không dung nạp được thiếp thất, vậy nên con gái Hải gia mới khó gả đi. Chỉ có điều anh Cả con cũng không ngại chuyện này, mấy năm nay tổng cộng cũng chỉ có một đứa thông phòng, gọi là gì… Hử…”

“Gọi là Dương Hào ạ.” Minh Lan tiếp lời.

Thịnh lão phu nhân nhẹ nhành nói: “Cái này rất tốt, mấy đứa con gái bị đặt tên xấu làm phiền anh con phải tống hết đi thôi, con gái con đứa gọi là cái gì heo sói gà chuột. Dương Hào kia chẳng qua nhan sắc tầm tầm, được cái biết phận, giữ lại để sai bảo cũng không sao cả.”

Nghe lão phu nhân chỉ nhẹ nhàng bâng quơ đã quyết định nhân sinh của một cô gái, ánh mắt của Minh Lan tối dần. Cô gái giống như Dương Hào bị nhà chủ thu mua, dùng xong mà chẳng có lấy một danh phận, tương lai kỳ thật rất đáng lo. Kết cục tốt nhất của các nàng là được lên làm thiếp, sau khi vợ cả sinh con, nếu như ân sủng của cậu chủ còn nhiều, còn có thể sinh con, nếu như nhà chủ vợ chồng hòa thuận, nàng từ nay về sau chỉ là đồ trang trí, thanh xuân từ từ héo mòn. Nhưng nếu mợ chủ không dung thứ loại thiếp này thì sẽ đuổi phắt ra ngoài, hoặc thả đi, hoặc gả cho người khác.

Nhưng mà có thể gả được cho người tốt nào đây? Chẳng qua chỉ là hạ nhân trong phủ, đàn ông ngoài chợ, tiều phu trong núi, nông dân trong ruộng, hễ là nam nhân có năng lực có của cải, chịu thương chịu khó, đều không cưới một cô gái đã bị phá thân.

Nhưng cũng không thể nhân nhượng được. Minh Lan biết bi kịch năm đó của lão phu nhân. Hậu quả sau màn châm ngòi xúi giục của bọn hầu ngủ cùng thiếp thất của Thịnh lão thái gia vô cùng nghiêm trọng. Loại người hầu này từ nhỏ hầu hạ cậu chủ, trên dưới đều quen thuộc, lại cùng với cậu chủ tình nghĩa thắm thiết, thông thường có địa vị vững chắc trước khi mợ chủ bước vào cửa, thậm chí còn ngáng chân mợ chủ.

Minh Lan để tay lên ngực tự hỏi: đến lúc đó, nàng có thể không do dự mà xử trí đối thủ sao?

Tác giả nói ra suy nghĩ của mình:

Trong “Hồng Lâu Mộng” có mấy câu như thế này: Đại lão gia cũng quá háo sắc, trong phòng chỉ cần là đứa có diện mạo tử tế thì nhất định không bỏ qua… Bày đặt thân thể khỏe mạnh không được chăm sóc, làm cái gì mà trái một người phải một đứa lẽ… Uyên Ương không được, thì mua Yên Hồng mười bảy mười tám tuổi…

- Cổ đại còn có nô tì bán thân, cậu chủ nếu muốn đưa lên giường thì không có khả năng phản kháng, ngẫu nhiên nghĩ tới, Cổ Xá già như vậy, cô bé kia làm thế nào mà sống tiếp nửa đời người.

(Giả Xá là một nhân vật trong Hồng Lâu Mộng, là cháu ruột của Vinh Quốc Công Giả Nguyên, là con cả của Giả mẫu, là chồng của Hình phu nhân, ông kế tục tước vị của Vinh Quốc Công. Người này trời sinh háo sắc, ở chương 46, ông ta muốn nha hoàn bên người mẫu thân là Uyên Ương làm thiếp, không tiếc cưỡng ép lợi dụng anh trai của Uyên Ương, sau này lọt vào tai Giả mãu bị cự tuyệt mới từ bỏ. Sau này dùng bạc để mua Yên Hồng về thay thế Uyên Ương.)

Nhân tiện dông dài một chút về nhân duyên của anh Ngô kia. Kỳ thật tin tức ở cổ đại không thông suốt, lại không thể thẩm tra nhân khẩu, chuyện cưới nhầm khó tránh khỏi. Chuyện làm mai ở cổ đại thường là từ thân bằng cố hữu xung quang của mở rộng dần ra, chính vì muốn tường tận gốc rễ, sợ nhất loại con gái không đáng tin, hoặc là loại chua ngoa!

Ngay cả thân bằng cố hữu cũng chưa chắc đã có con gái có thể kết hôn mà hợp độ tuổi, cái này đòi hỏi phải khuếch đại tầm xã giao bạn bè để tìm người.

Nhà Thịnh Duy ở kinh thành cũng không có bao nhiêu thân thích, trong tình huống không muốn cưới bừa, chỉ có thể khắp nơi nhờ vả.

Sự suy tàn của nhà Bảo Thoa có một phần lớn trách nhiệm thuộc về dì Tiết. Bà cũng không thực hiện nghĩa vụ của một quả phụ, quản giáo con cái không tốt còn chưa tính, cũng không chịu trách nhiệm chuyện làm ăn của dòng họ (Cùng một kiểu như dì Tiết nhưng lão phu nhân quản sự cũng không khiến mình bị lên án, Bảo Thoa là con gái chưa gả nên hành vi cũng không thể lộ liễu quá phận). Nghiêm trọng hơn chính là, dì ấy cũng không thể cưới về một con dâu tốt, Hạ Kim Quế vào cửa khiến cho Tiết gia liên tiếp gặp họa.

Mà tất cả những điều này đều là kết quả của việc dì Tiết phó mặc hết thảy.Họ Tiết không giống họ Giả gia nhân khẩu đông đúc, tệ nạn kéo dài lâu ngày thì khó khắc phục. Nếu bà có một chút kiên cương cùng trách nhiệm trong lời nói, Tiết gia có thể vì con gái mà lưu lại một chút của cải, không đến mức thảm bại. Lại nói tiếp, dì Tiết cũng là con gái của Vương gia ở Kim Lăng, sao lại vô dụng như vậy.

Cho nên mới nói cưới vợ là chuyện quan trọng.

trước sau
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây