Từ trên đỉnh gò đất nhìn xuống, dưới ánh trăng một vùng đầm lầy với vô số ao nước hiện ra phía trước, bóng thảo mộc ven bờ phản ánh nguyệt phát sáng. Cảnh giới trong mộng lại trở về. Xa xa một cánh rừng thưa đứng phía đối ngạn đầm nước lớn nhất, phảng phất đang mời gọi người tiếp tục tiến tới, đàng sau đó lại là những gò đất nối tiếp nhau. Ô Tử Hư nổi gai cùng mình, thầm nghĩ hay đó chẳng phải mộng cảnh mà đích thực xảy ra, hoặc giả đến bây giờ hắn vẫn bị hãm trong mộng cảnh? Đột nhiên hắn không còn phân biệt được là mộng hay thực, không gian này đã mất giới hạn. Vùng đất bằng ở xa xa lại hiện ra ánh sáng, lần này không phải vụt xẹt lên rồi tắt mà rõ ràng tiếp tục hiện hữu. Tim hắn bỗng đập nhanh mấy lần gây cảm giác hồi hộp, bất giác hắn hết sức kinh ngạc, vì đây là chỗ thiên phú đặc thù của hắn, mỗi khi tiếp cận dị bảo là tim hắn có phản ứng, nhưng nơi đây hoang sơn dã địa làm sao có được dị bảo? Ô Tử Hư tự bảo là gì cũng được, cứ tìm được nhà dân thì tự nhiên tìm được đường ra, chỉ cần rời khỏi nơi quỷ bí này, còn chuyện khác hắn không muốn bận tâm đến, nên vội nhắm hướng có ánh sáng bước đến. o0o “Thiện công công đến!”. Hoa Mộng phu nhân đã đứng sẵn ngoài cửa sảnh đường nghinh tiếp, nghe nói Ký Thiện đến tìm là nàng thêm nhức đầu. Sở trường của phu nhân là ứng phó đủ các loại nam nhân, nhưng gặp phải nam nhân không có hứng thú trước nữ nhân, thì dù nàng có giải pháp cũng không thể thi triển. Ký Thiện đương nhiên phụng mệnh Phụng công công đến đây, Cô Nguyệt Minh đêm qua mới đi khỏi, đêm nay Phụng công công liền phái người đến tìm nàng, đủ biết sự tình không bình thường, chẳng biết chuyện gì khiến Phụng công công khẩn trương như thế? Nàng nên ứng phó ra sao? Hoa Mộng phu nhân đương nhiên không thể tiết lộ tình hình thực sự của Cô Nguyệt Minh, nhưng nếu giấu quanh giấu quẩn e Phụng công công sẽ cho rằng nàng nói dối, thì đại họa sẽ lập tức giáng xuống đầu. Ký Thiện cười lên, khách sáo thi lễ: “Chào phu nhân, đại công công nhờ ta thỉnh an phu nhân. Lân Hoa Cư chẳng phải đã mở cửa sao? Phu nhân hà cớ không trở về liệu lý?”. Hoa Mộng phu nhân đáp: “Hoa Mộng thiếp hôm nay hơi không khỏe nên ở nhà nghỉ ngơi, đa tạ công công quan tâm”.
Ký Thiện bước theo Hoa Mộng phu nhân đến chỗ bàn tròn ở trung tâm đại sảnh, tỏ vẻ quan tâm thốt: “Phu nhân phải bảo trọng thân thể, nên nghỉ ngơi nhiều, để chốc nữa ta phái người đưa qua hai gốc dã sâm hạng nhất, phu nhân nấu lấy nước uống để bồi bổ nguyên khí”. Hoa Mộng phu nhân vội vàng cảm tạ và mời Ký Thiện ngồi tại bàn, còn mình thì ngồi bên, bảo tỳ nữ lui ra ngoài hết. Ký Thiện ho khan một tiếng, đột nhiên hạ thấp giọng thân thiết: “Nguyệt Minh là tri giao hảo hữu duy nhất của Ký Thiện này. Thế nên ta cũng không nói vòng vo, lần này đại công công phái ta đến gặp phu nhân, song phu nhân khoan vội nghi ngờ, chỉ vì đại công công quá quan tâm nhiệm vụ lần này của Nguyệt Minh. À! Phu nhân cũng biết tính đại công công, chuyện gì cũng phải nắm rõ trong tay, lại biết Nguyệt Minh trước khi rời kinh có ghé thăm phu nhân, nên... phu nhân nên hiểu ta đang nói gì chứ?”. Hoa Mộng phu nhân trong lòng hừ mũi, đừng nói Cô Nguyệt Minh không khi nào xem Ký Thiện là hảo hữu, mà chính họ Cô không có bằng hữu chi hết, nàng là ngoại lệ duy nhất, nhưng có thể vẫn chưa được xem là tri kỷ. Còn Ký Thiện càng không bao giờ xem Cô Nguyệt Minh là bằng hữu. Đối với Ký Thiện chỉ có quan hệ lợi ích và tổn hại. Thủ đoạn hung ác của Ký Thiện đã đồn xa khắp kinh thành, đừng tưởng vị thái giám không quá bốn mươi này có vẻ hiền hòa, sự thật gã có thể trở mặt giết người bất cứ lúc nào. Nội kinh thành ngoài Cô Nguyệt Minh và Quý Nhiếp Đề, không có kẻ thứ ba nào có thể đỡ được kiếm sắc của gã. Hoa Mộng phu nhân khẽ than: “Nhiệm vụ ấy quan trọng bực nào? Nguyệt Minh chẳng chịu tiết lộ một câu, chỉ bảo thiếp tìm giùm một người”. Ký Thiện rúng động hỏi: “Tìm ai?”. Nếu Ký Thiện là một nam nhân bình thường, Hoa Mộng phu nhân có thể thừa dịp dùng sắc mê hoặc gã để hỏi dò nhiệm vụ vô cùng bí mật của Cô Nguyệt Minh, nhưng rất tiếc cách này vô dụng đối với Thiện công công, nên nàng đành đáp: “Nguyệt Minh nhờ nô gia điều tra xem ở vùng Động Đình Hồ có cao thủ dùng độc hay chăng”. Ký Thiện như thở ra nhẹ nhõm, tuy không lộ liễu nhưng không giấu được đôi mắt kinh nghiệm của Hoa Mộng phu nhân, nàng thầm nghĩ chẳng lẽ Ký Thiện quả thật sợ Cô Nguyệt Minh xúc phạm Phụng công công sao? Nghĩ đến đây bất giác nàng có thêm chút hảo cảm với Ký Thiện. Ký Thiện gật đầu: “Điều này hợp lý, không làm như thế thì đâu phải tính cách của Nguyệt Minh. Nguyệt Minh có đề cập đến người nào khác chăng?”. Hoa Mộng phu nhân nghĩ chớp nhoáng, Cô Nguyệt Minh bảo nàng xem như chưa từng nghe đến tên Mâu Xuyên, đương nhiên y có lý do riêng, nhưng nếu không tiết lộ Cô Nguyệt Minh đã đề cập đến Phu Mãnh thì rất dễ lộ sơ hở, nên nàng vội nói: “Nguyệt Minh còn hỏi chuyện liên quan đến Phu Mãnh, không lý nhiệm vụ này quả có dính dự đến Phu Mãnh?”. Ngoài sự định liệu của Hoa Mộng phu nhân, Ký Thiện nói thẳng: “Ít nhiều có quan hệ. Ta hơi lo rằng Nguyệt Minh vì không rõ tình hình thực sự, sẽ bị tổn thất lớn”. Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác hỏi: “Tình hình gì?”. Ký Thiện hạ thấp giọng, xích gần Hoa Mộng phu nhân mà nói: “Điều ta sắp nói với phu nhân chỉ có thể cho một mình Nguyệt Minh biết mà thôi, tuyệt đối không thể cho người thứ tư biết, sau này ta sẽ phủ nhận từng nói điều này, phu nhân hiểu chứ?”. Hoa Mộng phu nhân khẽ nhíu mày, khẳng khái thốt: “Đã vậy xin công công tốt nhất chớ nói ra, nô gia sợ mình không đảm bảo được”. Kỳ thực nàng rất muốn biết hơn ai hết vì điều này liên hệ đến sự an nguy của Cô Nguyệt Minh. Chiêu này gọi là dĩ thoái vi tiến, buộc Ký Thiện phải tiết lộ chút nội tình, lại thừa cơ thử phản ứng của Ký Thiện để đoán xem gã có phải vẫn chuyển lời của Phụng công công, vì Phụng công công là người biết dùng thủ đoạn nhất kinh thành. Ký Thiện nghiêm mặt: “Phu nhân cho rằng Ký Thiện này là một kẻ có thể bị tiền tài trân bảo mua chuộc sao?”. Hoa Mộng phu nhân nghĩ thầm “Ai cũng biết ngươi tham nhũng, càng không có tư cách nói câu này”, nhưng nàng đâu thể nói thật, chỉ đáp: “Công công đương nhiên không phải hạng người như vậy”. Ký Thiện cười cay đắng: “Ta biết phu nhân nói câu đó chỉ để ngoài mặt, vì ít nhất ta đã nhận không ít vàng bạc của Nguyệt Minh. Nếu ta cho phu nhân biết mỗi cắc ta nhận được, cuối cùng cũng rơi vào túi riêng của đại công công, phu nhân tin không?”. Hoa Mộng phu nhân quá ngạc nhiên, lời nói của Ký Thiện gần như bội phản Phụng công công, song rất có thể là sự thật. Ký Thiện tiết lộ bí mật hẳn là để lấy sự tín nhiệm của nàng, tại sao gã đi nước cờ này? Nàng hồi hộp cúi đầu nói: “Nô gia xem như chưa bao giờ nghe công công nói câu này”. Ký Thiện trầm ngâm chốc lát, chừng như do dự, sau đó gã nói: “Phu nhân còn muốn nghe chăng?”. Hoa Mộng phu nhân khẽ gật đầu, trong lòng rối loạn, bởi những gì Ký Thiện sắp nói, chỉ cần Phụng công công biết được thì có thể đưa đến cho nàng họa sát thân. Ký Thiện đẹp dạ thốt: “Phu nhân không hổ là hồng nhan tri kỷ của Nguyệt Minh”. Hoa Mộng phu nhân buồn bã trong lòng. Từ nhỏ nàng lăn lộn nơi chốn thanh lâu, đã sớm hóa gỗ đá đối với tình cảm nam nữ, sự săn đón của nam nhân làm nàng chán ghét, chỉ có Cô Nguyệt Minh khiến nàng động lòng, có thể vì đối với nàng Cô Nguyệt Minh không đòi hỏi nhục thể, nên tạo cho nàng cảm giác khác biệt với các nam nhân khác. Cũng có thể vì cả hai người họ đều là những kẻ cô độc. Ký Thiện trầm giọng: “Phu nhân không cần biết chi tiết, nếu phu nhân có thể giấu được tin tức này là do ta tiết lộ, thì ta rất cảm kích, xin thề ngay nếu xảy ra biến cố sau này, Ký Thiện này sẽ tận toàn lực bảo hộ phu nhân, nếu phạm lời thề sẽ bị thảm tử”. Hoa Mộng phu nhân rúng động toàn thân, ngẩng đầu nhìn Ký Thiện. Hai mắt Ký Thiện phát ra ánh kiên định, gã thong thả thốt: “Ta muốn kể cho phu nhân bí mật này đến cả đại công công cũng không biết, là để phu nhân chuyển lời lại cho Nguyệt Minh. Đó là quan hệ giữa Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh”.
Hoa Mộng phu nhân càng nghe càng mù mịt nhưng không dám hỏi. Quý Nhiếp Đề có quan hệ gì với Phu Mãnh? Nếu tin tức của Ký Thiện không phải xuất phát từ Phụng công công thì là từ đâu? Ký Thiện kề tai nàng: “Thuở niên thiếu, Quý Nhiếp Đề và Phu Mãnh là bạn thân, tình như huynh đệ, rồi vì cùng thương một thanh lâu tài nữ mà trở mặt với nhau, xem nhau như người xa lạ. Chuyện này xảy ra trước khi họ thăng quan”. Hoa Mộng phu nhân không hiểu tin tức này có tác dụng gì cho nhiệm vụ của Cô Nguyệt Minh, bèn nhíu mày hỏi: “Sau đó thì hoa vào nhà nào?”. “Vì lai lịch của tài nữ nọ, Phu Mãnh chỉ hứa nạp nàng làm thiếp. ta chỉ nói được chừng này, phu nhân không cần biết ngọn ngành, chỉ cần nói y như vậy cho Nguyệt Minh biết, bằng vào tài trí của Nguyệt Minh sẽ hiểu phải làm gì”. Hoa Mộng phu nhân gật đầu: “Nô gia hiểu rồi!”. Ký Thiện nghiêm mặt: “Lời ta vừa nói toàn là sự thật không chút nói ngoa, chỉ có lợi chứ vô hại cho Nguyệt Minh”. Nói xong gã đứng dậy cáo từ. Hoa Mộng phu nhân vội đứng lên tiễn khách, ra đến cửa Ký Thiện dừng bước thốt: “Đại công công bảo ta đến nói, nếu phu nhân không chịu hợp tác mà che giấu giùm Nguyệt Minh, thì hỏi phu nhân một câu”. Hoa Mộng phu nhân cảm thấy tâm tình lên xuống đều bị vị thái giám này khống chế trong tay, bèn thở dài nói: “Đương nhiên chẳng phải lời nói tốt đẹp gì”. Ký Thiện chăm chú nhìn nàng: “Đại công công bảo ta hỏi, phu nhân có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?”. Hoa Mộng phu nhân ngơ ngác, bất giác suy nghĩ “Mình có chịu hy sinh tất cả vì Nguyệt Minh chăng?”. Ký Thiện hân hoan thốt: “Ta biết câu trả lời rồi! Phu nhân quý thể bất an, không cần tiễn nữa. Mai hậu tại kinh thành có gì phiền não, chỉ cần cho ta biết một tiếng, chắc chắn sẽ không làm phu nhân thất vọng”. Gã nói xong bèn đi ra khỏi cổng. Hoa Mộng phu nhân mất một lúc sau mới định thần, thầm suy nghĩ: “Nhìn theo bất cứ góc độ nào, Ký Thiện cũng không bao giờ lén Phụng công công đi giúp đỡ Cô Nguyệt Minh, hà huống kẻ này chẳng có chính nghĩa gì cả, hoặc giả vẫn là Phụng công công đứng sau chỉ thị gã. Nhưng nói vậy cũng không hợp lý, nếu Phụng công công muốn cho Cô Nguyệt Minh biết rõ ân oán giữa Phu Mãnh và Quý Nhiếp Đề, thì có thể nói thẳng với Nguyệt Minh, đâu cần đánh đường vòng”. Nàng nghĩ hoài không thông. o0o Ô Tử Hư tiếp tục tiến tới giữa vùng đất tựa như mộng cảnh. Hắn phải vượt qua vùng đầm lầy cho nên không có cách nào đi thẳng, ánh sáng phía trước ở trong khu rừng lúc ẩn lúc hiện nhưng vẫn còn không tắt. Trăng treo phía sau lưng, bầu trời biến ra màu trắng bạc, khiến hắn chẳng những khó phân biệt là mộng cảnh hay hiện thực, mà đến giới hạn ngày đêm cũng mơ hồ, như thể thiên địa tự khởi thủy vẫn là như vậy, và vĩnh viễn cũng không có biến hóa gì. Bao nhiêu ý niệm kỳ quái dấy lên trong óc hắn, vốn là ký ức mơ hồ bỗng hiển hiện, những sự việc tưởng đã quên mất thì ra vẫn hiện rõ mồn một. Mỗi dòng suy nghĩ cùng ý niệm đều xẹt qua trong não và biến mất không dấu vết. Tình trạng này chưa bao giờ xảy ra cho hắn, tựa như hoàn cảnh kỳ dị này có sức khơi lên hồi ức của hắn một cách lạ thường. Luồng suy nghĩ của hắn đi từ lúc mấy năm gần đây trộm bảo vật để sinh nhai, đến ngược trở về thuở ấu thơ xa xưa không mấy sung sướng mà hắn đã quên đi. Trong đó có một tình cảnh đặc biệt rõ, là lúc hắn bị bệnh, mẹ hắn vừa khóc vừa đút thuốc đắng cho hắn, còn tất cả những người khác kể cả cha hắn chẳng ai đoái hoài, trong lòng tràn ngập cảm giác buồn bã không thể giải bày, không khí vùng đầm lầy như lan đầy mùi thuốc nồng nặc. Ô Tử Hư cơ hồ muốn ngẩng đầu hét lớn, đột nhiên hắn tỉnh lại, chẳng hiểu vì sao mình lại suy nghĩ lộn xộn vậy. Hắn định thần nhìn thì thấy mình đã vượt qua đầm nước lớn, đến dưới chân đồi, phía trên là khoảng rừng thưa, đỉnh đồi có một đống đá ngổn ngang, trong đó một viên đá tỏa ra kim quang rất quỷ dị. Hắn cứ tưởng ánh sáng phát ra từ nhà dân, giờ thì biết không phải thế. Nơi hoang sơn dã địa tại sao có vật tỏa sáng, không phải lửa lân tinh, không lý đó là quỷ hỏa theo trong truyền thuyết? Nghĩ đến đây, hắn suýt bỏ chạy nhưng lại không cam tâm, suy tính tới lui, cuối cùng hắn lấy can đảm đi lên đồi, mỗi bước như nặng ngàn cân. Các thứ bàng môn tả đạo đa phần hắn có nghiên cứu qua, chỉ chưa học phép vẽ bùa bắt quỷ, vì hắn không tin trò này, bây giờ hơi hối hận, nếu có một vài đạo bùa hộ thân, gặp phải quỷ cũng có cách ứng phó, không thúc thủ như bây giờ. Nhưng rồi hắn lại thấy buồn cười, tại sao hai đêm nay hắn cứ nghi thần nghi quỷ, chân giả bất phân, thật ra là chuyện gì? Ô Tử Hư cuối cùng lên đến đỉnh đồi, bỗng rúng động toàn thân mở to mắt nhìn thẳng vào khối đá tỏa sáng, hắn bất giác quỳ xuống như không tin mắt mình, trân trân nhìn dị vật đang tỏa kim quang ở trên khối đá bằng phẳng cao ngang đầu gối. Trong lòng hắn thầm kêu: “Trời ơi! Đây là vật gì? Không lý lại là dạ minh châu có thể tỏa sáng trong đêm, ánh sáng như vầy cách xa nhiều dặm vẫn thấy được, vật tỏa sáng lại là một viên dạ minh châu phát kim quang, thật là chưa hề nghe qua, chắc chắn là kỳ trân hiếm có”.
Ngọc châu màu hoàng kim lớn bằng đầu ngón tay, tròn vành vạnh không tì vết, bên trong như hàm chứa huyền cơ, ẩn tàng một thế giới riêng, tựa như một thần vật giáng phàm. Ô Tử Hư đầu óc trống rỗng, nhất thời không hiểu đã xảy ra chuyện gì. “Ta có phải đang nằm mơ? Làm thế nào đang trong lúc mạt vận lại gặp được tuyệt đại dị bảo, vật này phải đáng bao nhiêu tiền”. Tim hắn hổn loạn, hít hơi thật sâu, đưa tay run rẩy chạm vào dạ minh châu. Hắn thầm nghĩ nếu đụng vào mà vật này tan biến, thì chứng tỏ mình đang nằm mộng. Đột nhiên Ô Tử Hư kêu lên một tiếng, ngồi bệt xuống đất thở hồng hộc. Dạ minh châu đang nằm giữa hai ngón tay của hắn, quả thật tồn tại! Trời! Thì ra là thật. Ô Tử Hư nhìn tứ phía, không thấy bóng người nào cả, mới dám đưa dạ minh châu đến trước mắt nhìn không chớp. Dạ minh châu càng sáng rực, chiếu đến mức như soi thấu bàn tay của hắn. Ô Tử Hư vội cất dạ minh châu vào trong mình, bao nhiêu nỗi kinh sợ đã biến mất, thay thế bằng một sự vui mừng trong cơn bĩ cực thái lai. Phen này khỏi lo rồi! Mấy năm qua mỗi lần thanh toán xong một mối buôn bán, hắn liền đem dụng cụ hành nghề và năm trăm lượng bạc giấu một chỗ ở trong núi hoang, sau đó tận tình đem “của” đi khắp nơi hưởng thụ, đến khi xài hết sạch, mới đi lấy đồ nghề và dùng năm trăm lượng làm kinh phí cho mối trộm bảo vật kế tiếp. Thông thường hắn tốn mất ba tháng đi tìm mục tiêu, mất công quan sát tỉ mỉ để nắm rõ tình cảnh của mục tiêu, sau đó hạ thủ trộm báu và lập tức chạy xa, do đó cần dùng đến năm trăm lượng. Lúc xảy ra chuyện, hắn chỉ còn lại một lượng bạc, lại không thể trốn đi tìm tài sản cất giấu ở bắc ngạn đại giang, đâm ra hắn trở thành nghèo mạt. Người không tiền không xong, nhất là kẻ địch lại là bang hội có thế lực nhất, không tiền mỗi bước càng khó đi. Mình nghĩ được thì kẻ địch cũng nghĩ tới, do đó hắn muốn trốn ra hải ngoại, chỉ như vậy mới hòng thoát ma chưởng của kẻ địch. Đương nhiên hắn không đành rời bỏ vùng đất hắn biết rõ như bàn tay mình, chỉ có ở đây công hắn luyện tập mới không lãng phí. Quan trọng hơn là chỉ có ở đây, hắn mới biết cách làm sao che giấu thân phận. Thử nghĩ nếu ra hải ngoại đến xứ nào đó, chỉ nội ngôn ngữ không thông cũng đủ khiến hắn không có đất dụng võ. Hà huống hắn rất thích kế sinh nhai bằng nghề trộm báu, không có gì đánh đổi được cảm giác thành tựu sau khi đắc thủ và sự kích thích trong lúc hành sự. Đối với hắn, nghề trộm không còn là nghề vặt của phường chuột nhắt, mà là một nghệ thuật. Tuy nhiên nếu hắn có thể bán được viên dạ minh châu thì mọi thứ sẽ khác đi. Hắn sẽ có đủ tài lực để làm bất cứ chuyện gì, chỉ cần trốn xa phạm vi mà kẻ địch có thế lực mạnh nhất, ẩn tính mai danh một thời gian thì sẽ có cơ hội bắt đầu lại. Nói trắng ra, hắn hưởng thụ đã quen, bảo hắn chịu cực chẳng khác nào đòi mạng hắn. Chuyến buôn bán lần này sẽ không giống lần trước, dạ minh châu là vật vô chủ, không thể bảo khổ chủ chuộc tiền. Lại nữa Hoàng Phủ Thiên Hùng trước sau gì cũng biết Ngũ Độn Đạo hắn là kẻ giết con lão. Với thế lực của Đại Hà Minh, muốn truy tìm hành tung trong ba tháng qua của hắn thật dễ như trở bàn tay, thấy một kẻ không tên tuổi trong vài tháng ngắn ngủi xài một mớ tiền nhiều như thế, không nghi ngờ mới là chuyện lạ. Chỉ cần tìm đến vài tay buôn của trộm đủ tư cách làm ăn với hắn, thì thân phận chân chính của hắn sẽ không chỗ che giấu. Do đó hắn không thể bán bảo vật theo lối thường, như vậy là tự tìm tử lộ. Người có khả năng giúp hắn thoát nạn cần hội đủ ba điều kiện. Đầu tiên là có đủ tiền mua dạ minh châu, thứ đến là có tư cách không e ngại Hoàng Phủ Thiên Hùng, sau rốt y phải là người rất thích sưu tầm bảo vật và có kiến thức. Tại vùng nam ngạn Đại Giang, người như thế chỉ có một, ấy là Tiền Thế Thần, bản thân đã là đại quan, vừa là bố chính sứ ti vùng Hồ, Quảng, vừa là cự phú bậc nhất Giang Nam. Đồn rằng người này có qua lại mật thiết với thủ lãnh xưởng vệ Quý Nhiếp Đề, lại là tâm phúc của Phụng công công quyền khuynh thiên hạ, một người như thế sẽ không xem Hoàng Phủ Thiên Hùng vào đâu cả. Chỉ cần Tiền Thế Thần chịu xuất hai, ba vạn lượng bạc để mua dạ minh châu của hắn, mọi khó khăn có thể giải quyết được. Lúc này cần gấp, phải tìm ngay hai trăm lượng làm kinh phí hành sự. Hắn cần cẩn thận đường đi nước bước, không thể sơ xuất, nên không tránh khỏi trộm vặt một chút. Mơ hồ hắn cảm thấy viên dạ minh châu hoàn toàn thay đổi vận đen của hắn, con đường phía trước lại tràn đầy ánh sáng và hy vọng. - o O o -